-
Vai trò của nghề Luật sư trong sự phát triển của nền kinh tế – xã hội
Trả lời?
Trong một nền tư pháp dân chủ, khi mà các giá trị quyền con người được tôn vinh và là đích đến của toàn bộ hệ thống tư pháp thì hoạt động của nghề Luật sư với sứ mệnh bảo vệ công lý, công bằng xã hội, được coi là một đại lượng để đánh giá uy tín và chất lượng của hoạt động tư pháp, là một tất yếu cho sự phát triển của Đất nước trong dòng chảy của xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Tại Nghị quyết 08-NQ/TW và Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đã chỉ ra rằng nghề Luật sư ở nước ta đang có những cơ hội phát triển đầy thuận lợi “Nhà nước tạo điều kiện về pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối với thành viên của mình”.
Những năm gần đây, pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư cũng như các hoạt động lập pháp trong lĩnh vực này đã đạt được những thành quả tích cực mà biểu hiện sinh động là việc ban hành Luật Luật sư 2006 thay thế Pháp lệnh Luật sư 2001 (trước đó nữa là Pháp lệnh tổ chức Luật sư 1987), tuy nhiên vẫn còn rất nhiều vấn đề cần được quan tâm một cách thấu đáo hơn nữa trong thực tiễn cải cách tư pháp nói chung và vấn đề pháp luật về luật sư và hành nghề luật sư nói riêng.Tại Điều 2 Luật Luật sư 2006: “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức”. Và Tiêu chuẩn luật sư được quy định tại Điều 10 Luật Luật sư 2006: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng Cử nhân Luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành Luật sư”.
Theo đó, Luật sư là một chức danh tư pháp độc lập, chỉ những người có đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện việc tư vấn pháp luật, đại diện theo ủy quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà nước trước Tòa án và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác.
Nghề luật sư không giống như những ngành nghề bình thường khác vì ngoài những yêu cầu về kiến thức và trình độ chuyên môn thì yêu cầu về việc hành nghề luật sư còn phải tuân thủ theo quy chế đạo đức nghề nghiệp. Đây là một nét đặc thù riêng của nghề Luật sư và nét đặc thù này tác động sâu sắc đến kỹ năng hành nghề, đặc biệt là kỹ năng tranh tụng của luật sư. Về tính chất, hoạt động nghề nghiệp của luật sư bao gồm ba tính chất: trợ giúp, hướng dẫn và phản biện.
Xuất phát từ tính chất, đặc thù của nghề luật sư, nó đòi hỏi luật sư ngoài các phẩm chất chung là Chân, Thiện, Mỹ, luật sư còn phải là người có khối óc thông minh, tấm lòng trong sáng, dũng cảm, biết lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm cơ sở hoạt động mới xứng đáng với sự tin cậy và tôn vinh của xã hội.
Kế thừa quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001, Luật Luật sư quy định người muốn được hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư. Quy định này nhằm bảo đảm tính chuyên nghiệp của nghề luật sư, phòng ngừa tình trạng những người không có đủ tiêu chuẩn, điều kiện vẫn thực hiện dịch vụ pháp lý như luật sư, góp phần bảo vệ lợi ích của cá nhân, tổ chức và xã hội, tăng cường quản lý về hành nghề luật sư.
Có thể thấy rằng sau khi Pháp lệnh luật sư năm 2001 và đặc biệt sau khi Luật Luật sư 2006 được ban hành, hoạt động hành nghề luật sư có những bước chuyển biến rõ rệt. Theo quy định của Pháp lệnh luật sư thì dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác. Luật Luật sư đã mở rộng hơn phạm vi hành nghề luật sư với việc quy định luật sư được đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng. Có thể nói trên cơ sở những quy định ngày càng thông thoáng hơn của pháp luật cộng với sự nỗ lực của các luật sư, dịch vụ pháp lý của luật sư tăng đáng kể về số lượng và nâng cao một bước về chất lượng.
Tham gia tố tụng là lĩnh vực hành nghề chủ yếu của các luật sư hiện nay. Trong thời gian qua, các luật sư đã tham gia giải quyết hàng trăm nghìn vụ án. Vai trò của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng đã có những bước phát triển về chất. Xuất phát từ việc pháp luật tố tụng đang từng bước được hoàn thiện, các cơ quan tiến hành tố tụng đã quan tâm hơn đến việc tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị can, bị cáo, đương sự. Đặc biệt sau khi Nghị Quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị đã nêu rõ: “Khi xét xử, các toà án …việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa… Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia cào quá trình tố tụng …”, thì vai trò của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng đã được nâng lên một bước. Nhiều cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát đã tạo điểu kiện cho luật sư tham gia vào quá trình tố tụng được thuận lợi hơn. Ý kiến của luật sư tại phiên toà đã được cơ quan công tố quan tâm và coi trọng. Việc tham gia tố tụng của các luật sư không những bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của bị can, bị cáo, các đương sự khác, mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, làm rõ sự thật khách quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Tư vấn pháp luật là lĩnh vực hành nghề quan trọng của luật sư, đặc biệt trong điều kiện nhu cầu về tư vấn pháp luật trong xã hội ngày càng tăng nhanh. Các luật sư đã mở rộng và phát triển tư vấn trong các lĩnh vực kinh tế, đầu tư, thương mại. Trong lĩnh vực tư vấn về pháp luật dân sự thì tư vấn về đất đai, hôn nhân gia đình đang là mảng tư vấn phổ biến và sôi động nhất.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hoá, các luật sư hoạt động trong lĩnh vực tư vấn pháp luật đang phát huy vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ các doanh nghiệp đàm phán, ký kết hợp đồng, giải quyết các tranh chấp phát sinh đặc biệt trong các lĩnh vực mới mẻ như đầu tư nước ngoài, sở hữu trí tuệ, quan hệ thương mại hàng hoá có yếu tố nước ngoài…
Ngoài ra, các luật sư cũng đã tham gia tích cực vào hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối tượng thuộc diện chính sách. Việc tham gia vào hoạt động này không chỉ thực hiện một cam kết mang tính chất nghĩa vụ của luật sư đối với xã hội mà còn góp phần tạo lập sự công bằng cho các đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý. Trong thời gian qua, các luật sư đã tham gia trợ giúp pháp lý cho hàng chục nghìn vụ việc, góp phần đáng kể trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người nghèo, người thuộc diện chính sách.
Ở Việt Nam hiện nay, nghề luật sư đang dần khẳng định được vai trò quan trọng, tuy nhiên trong các văn bản pháp lý cũng như quan niệm của cơ quan nhà nước, cơ quan tiến hành tố tụng và quan niệm của doanh nghiệp, người dân thì vai trò của luật sư chưa được coi trọng xứng với tầm thực tế của luật sư. Đó cũng là một trong những lý do ảnh hưởng đến đạo đức và văn hóa nghề nghiệp của luật sư Việt Nam.
Để góp phần tạo nên một nét văn hóa riêng của nghề luật sư, mỗi luật sư phải có nhìn nhận đúng mực về nét văn hóa tư pháp nói chung và phong cách văn hóa nói riêng của nghề luật sư. Muốn làm được điều này, những người trong nghề luật sư phải thực sự yêu nghề nghiệp mình đã chọn lựa. Mỗi luật sư ai cũng có trách nghiệm phát huy và duy trì những điểm sáng của nghề, phải có ý thức giữ gìn đạo đức, phẩm giá của mình, giữ mối quan hệ tốt với mọi người, với đồng nghiệp.
Bên cạnh đó, nhà nước cần quan tâm hơn nữa đối với nghề luật sư. Trong các giải pháp hoàn thiện lực lượng bổ trợ tư pháp, việc đào tạo nghề luật sư cần được chú trọng, quan tâm hơn, cũng như nên bố trí thêm thời gian, nội dung để các học viên học về đạo đức và văn hóa của nghề nghiệp luật sư. Từ đó mới hình thành một đội ngũ luật sư thật sự có đạo đức, văn hóa và tài giỏi, đương đầu với những vi phạm, tranh chấp tiềm ẩn trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
-
Thời hạn bảo hộ quyền tác giả
Trả lời?
Pháp luật Việt Nam luôn thừa nhận và bảo vệ các quyền của các chủ thể đối với sản phẩm trí tuệ do họ sáng tạo ra. Các sản phẩm trí tuệ khi được sử dụng, ngoài việc mang lại những lợi ích nhất định cho người tạo ra nó còn nhằm thỏa mãn các nhu cầu chung của xã hội, của nhân loại. Pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả đối vói tác phẩm là nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả là khoảng thời gian do pháp luật quy định, trong đó các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người thừa kế quyền tác giả được Nhà nước bảo hộ.
- Bản quyền tác giả Bảo hộ vô thời hạn
Quyền nhân thân bao gồm: Đặt tên cho tác phẩm, đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng; Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất cứ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả sẽ được Luật sở hữu trí tuệ nàybảo vệ vô thời hạn.
2. Bản quyền tác giả Bảo hộ có thời hạn
Bản quyền tác giả Bảo hộ có thời hanh là các quyền đối với tác phẩm được pháp luật bảo hộ có thời hạn bao gồm quyền nhân thân có thể chuyển dịch (quyền công bố hoặc cho người khác công bố tác phẩm) và các quyển tài sản.
- Tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên; đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình;
- Tác phẩm không thuộc loại hình trên có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết;
- Thời hạn bảo hộ chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.
Việc pháp luật quy định về bảo hộ quyền tác giả năm mươi năm sau khi tác giả chết nhằm xác định quyền để lại thừa kế của tác giả đối với tác phẩm cho những người thừa kế của họ. Vì vậy, khi tác giả chết quyền tác giả cũng là loại di sản thừa kế và được chuyển dịch theo quy định của pháp luật thừa kế.
-
Thủ tục chuyển đổi công ty TNHH hai thành viên thành công ty TNHH Một thành viên
Trả lời?
Bạn muốn chuyển đổi loại hình doanh nghiệp từ Công ty TNHH hai thành viên trở lên thành Công ty TNHH một thành viên?
Các hình thức chuyển đổi loại hình doanh nghiệp
- Một thành viên trong công ty nhận chuyển nhượng toàn bộ vốn góp của các thành viên còn lại
- Một cá nhân/tổ chức không thuộc công ty mua lại toàn bộ vốn góp của tất cả các thành viên trong công ty
Thủ tục chuyển đổi loại hình doanh nghiệp là gì?
Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ
Để thực hiện được thủ tục này, bạn cần chuẩn bị những văn bản sau:
- Thông báo thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh
- Biên bản họp của hội đồng thành viên
- Quyết định của hội đồng thành viên
- Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp
- Điều lệ công ty
- Bản sao chứng thực cá nhân trong vòng 06 tháng của chủ sở hữu công ty và người được ủy quyền thực hiện thủ tục, nếu người đại diện theo pháp luật của công ty không tự mình thực hiện thủ tục này (chứng minh nhân dân, căn cước công dân, hộ chiếu,…)
- Văn bản ủy quyền cho người thực hiện thủ tục , nếu người đại diện theo pháp luật của công ty không tự mình thực hiện thủ tục này.
Bước 2: Nộp hồ sơ và nhận kết quả:
Trình tự và thủ tục tương tự với thành lập mới doanh nghiệp
Những lưu ý khi chuyển đổi loại hình doanh nghiệp
- Sau khi hoàn thành xong thủ tục chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, nếu tên doanh nghiệp có ghi rõ loại hình “một thành viên” và “hai thành viên trở lên”, hoặc tên doanh nghiệp bị thay đổi hoàn toàn thì phải tiến hành khắc và công bố mẫu dấu mới. Nếu chỉ ghi là “Công ty TNHH”/”Công ty Trách nhiệm hữu hạn” thì không cần thực hiện thủ tục này.
- Khi thực hiện thủ tục chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, có thể thực hiện đồng thời các nội dung thay đổi khác (Ví dụ: Thay đổi tên công ty, địa chỉ, ngành nghề kinh doanh…) trừ thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty;
- Doanh nghiệp cần chú ý sửa đổi thông tin trên các văn bản, hồ sơ nội bộ
- Doanh nghiệp cần thông báo đến các đối tác, ngân hàng về sự thay đổi này
Trên đây là những tư vấn sơ bộ của VITAM LAW -FIRM về việc thực hiện thủ tục chuyển đổi loại hình doanh nghiệp từ Công ty TNHH hai thành viên trở lên thành Công ty TNHH một thành viên. Nếu bạn có bất kỳ vướng mắc nào cần được giải đáp và hỗ trợ, hãy liện hệ đến chúng tôi – VITAM LAW -FIRM luôn sẵn sàng tư vấn và giải quyết mọi vướng mắc của bạn một cách tận tình nhất.
-
Bí mật kinh doanh của doanh nghiệp là gì?
Trả lời?
- Khái niệm:
Là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh.
- Điều kiện bảo hộ:
– Không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được;
– Khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ bí mật kinh doanh lợi thế so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng bí mật kinh doanh đó;
– Được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để bí mật kinh doanh đó không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được.
– Không phải đăng ký bảo hộ